Giá lúa gạo hôm nay 14/7: Giữ ổn định đầu tuần

14/07/2025 - 17:20
(Bankviet.com) Giá lúa gạo hôm nay 14/7 tại Đồng bằng sông Cửu Long đi ngang. Xuất khẩu 6 tháng tăng sản lượng nhưng giảm giá trị do giá bình quân sụt mạnh.
Hàng hóa - Giá cả

Giá lúa gạo hôm nay 14/7: Giữ ổn định đầu tuần

Thu Thủy 14/07/2025 09:59

Giá lúa gạo hôm nay 14/7 tại Đồng bằng sông Cửu Long đi ngang. Xuất khẩu 6 tháng tăng sản lượng nhưng giảm giá trị do giá bình quân sụt mạnh.

Thị trường nội địa chững lại

Ghi nhận sáng nay 14/7, giá lúa gạo hôm nay tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) vẫn duy trì ổn định, không có biến động so với giữa tuần. Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, lúa OM 18 (tươi) hiện dao động từ 6.000 – 6.200 đồng/kg, OM 5451 khoảng 5.900 – 6.000 đồng/kg, còn IR 50404 (tươi) ở mức 5.700 – 5.800 đồng/kg.

giá lúa gạo hôm nay 14-7
Giá lúa gạo hôm nay ổn định

Một số giống lúa chất lượng cao như Nàng Hoa 9 và Đài Thơm 8 vẫn giữ mức 6.000 – 6.200 đồng/kg, trong khi lúa OM 308 (tươi) được mua vào quanh ngưỡng 5.700 – 5.900 đồng/kg.

Về mặt hàng gạo nguyên liệu, thị trường cũng giữ mức giá tương tự các phiên gần đây. Gạo OM 18 dao động 9.600 – 9.700 đồng/kg, gạo IR 50404 giữ mức 7.600 – 7.700 đồng/kg, còn CL 555 và OM 380 lần lượt ở mức 8.000 – 8.100 đồng/kg và 7.400 – 7.500 đồng/kg.

Đối với gạo thành phẩm, giá OM 380 đang ở mức 8.800 – 9.000 đồng/kg, còn IR 50404 thành phẩm duy trì ở 9.500 – 9.700 đồng/kg – mức cao so với cùng kỳ năm trước.

Tại các chợ lẻ, giá bán lẻ các loại gạo phổ biến hầu như không biến động. Hiện gạo Nàng Nhen vẫn niêm yết ở mức cao nhất 28.000 đồng/kg, kế đến là Hương Lài giá 22.000 đồng/kg, gạo thơm Thái hạt dài dao động từ 20.000 – 22.000 đồng/kg, trong khi gạo thơm Jasmine ở mức 16.000 – 18.000 đồng/kg. Các loại gạo trắng thường, Sóc thường, Sóc Thái, gạo Nhật cũng giữ mức giá ổn định từ 13.000 – 22.000 đồng/kg tùy loại và khu vực.

Xuất khẩu gạo tăng mạnh sản lượng

Theo số liệu mới nhất từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Bộ Công Thương, trong 6 tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã xuất khẩu được 4,9 triệu tấn gạo, thu về 2,54 tỷ USD. So với cùng kỳ năm 2024, sản lượng tăng 7,6%, nhưng giá trị lại giảm 12,2%. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc giá gạo xuất khẩu bình quân chỉ đạt 517,5 USD/tấn, giảm sâu tới 18,4% so với năm trước.

Hiện tại, giá gạo xuất khẩu Việt Nam loại 5% tấm giữ ở mức 382 USD/tấn, gạo 25% tấm ở 357 USD/tấn, và 100% tấm ở 317 USD/tấn, không thay đổi so với hôm qua. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), đây là mức giá cạnh tranh so với các nước xuất khẩu lớn khác như Thái Lan và Ấn Độ, tuy nhiên biến động chính sách thuế nhập khẩu của Mỹ và rủi ro logistics đang tạo sức ép lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt.

Về thị trường tiêu thụ, Philippines vẫn là đối tác lớn nhất, chiếm 41,4% thị phần, dù giá trị xuất khẩu sang đây đã giảm 17,4% trong 5 tháng đầu năm. Ngược lại, thị trường Bờ Biển Ngà tăng 88,6%, và Ghana tăng 61,4%, cho thấy các thị trường châu Phi đang trở thành điểm sáng mới.

Đáng chú ý, giá trị xuất khẩu gạo sang Bangladesh tăng tới 293,2 lần, trong khi thị trường Malaysia giảm mạnh nhất với mức sụt 54,7%. Trong nhóm 15 thị trường xuất khẩu lớn nhất, mức tăng trưởng phân hóa mạnh, phản ánh rõ xu thế chuyển dịch dòng chảy thương mại gạo toàn cầu.

Các chuyên gia nhận định, trong bối cảnh giá xuất khẩu bình quân giảm, Việt Nam cần chú trọng hơn vào chiến lược nâng cao chất lượng và thương hiệu gạo. Việc ổn định sản lượng trong nước kết hợp với đa dạng hóa thị trường sẽ là yếu tố then chốt để duy trì vị thế xuất khẩu gạo trong thời gian tới.

Thu Thủy

Theo: Kinh Tế Chứng Khoán