Vai trò là động lực tăng trưởng quan trọng của kinh tế Việt Nam
Phát biểu tại tọa đàm, TS. Lê Thị Thùy Vân, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính) cho biết, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2050 và đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030, tiến tới thu nhập cao vào năm 2045.
Muốn hiện thực hóa những mục tiêu này, Việt Nam buộc phải thúc đẩy cải cách kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế và tìm kiếm các động lực tăng trưởng mới, hướng đến phát triển bền vững trong giai đoạn tiếp theo. Trong quá trình đó, FDI được xác định có vai trò rất quan trọng.
Từ vai trò đó, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính đặt vấn đề làm thế nào để đưa FDI trở thành một động lực tăng trưởng mới, làm sao để FDI thực sự trở thành một động lực mới của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Tại tọa đàm, TS. Bùi Quý Thuấn, Trưởng Ban Nghiên cứu Liên Chi hội Tài chính Khu công nghiệp Việt Nam (VIPFA) đánh giá, cơ cấu FDI đã có sự chuyển dịch tích cực. Từ năm 2010 - 2024, vốn FDI chuyển từ các ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày sang các ngành công nghệ cao, với tỷ trọng ngành điện tử tăng từ 4,1% lên 17,8%. Các lĩnh vực như tài chính, năng lượng tái tạo và dịch vụ giá trị gia tăng cao cũng thu hút vốn mạnh mẽ. FDI đã thúc đẩy xuất khẩu, với khu vực này chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, giúp Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất và xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao. Các tập đoàn như Samsung, Intel và LG đã biến Việt Nam thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chỉ ra những tác động tích cực của dòng vốn FDI vào nền kinh tế, TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban Quốc tế và Chính sách hội nhập, Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính cho rằng, khu vực FDI đã khẳng định vai trò là động lực tăng trưởng quan trọng của kinh tế Việt Nam, thể hiện thông qua đóng góp của FDI trong: xuất khẩu, ổn định vĩ mô, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, dẫn dắt, tạo ra các cụm sản xuất chuyên môn hóa, thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo tại Việt Nam...
Theo đó, đóng góp của FDI tới tăng trưởng thể hiện qua nhiều khía cạnh, từ việc bổ sung một nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế xã hội, tới mở rộng thị trường thông qua xuất khẩu, tới lan toả công nghệ và năng suất tới thúc đẩy cải cách thể chế. Tính trung bình, tỷ trọng của FDI trong GDP liên tục tăng lên từ mức 18,22% trong giai đoạn 2011 - 2015, lên 21,06% giai đoạn 2016 - 2020 và 22,25% trong giai đoạn 2021 - 2023.
Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của FDI cũng luôn vượt trội so với mức trung bình của cả nước. Tỷ trọng đóng góp tuyệt đối của FDI vào tăng trưởng đã tăng từ 0,98 điểm % vào năm 2011 lên 1,39% vào năm 2019, 1,63% vào năm 2022 tương ứng với tỷ trọng đóng góp tương đối của khu vực FDI trong tăng trưởng GDP đã tăng đều đặn từ 15,3% năm
Ở phạm vi hẹp, sự tập trung của FDI vào các cụm công nghiệp tạo ra các "cực tăng trưởng" trong các tiểu vùng, thu hút lao động, đồng thời thúc đẩy sự phát triển hạ tầng giao thông kết nối, hình thành các hành lang kinh tế quan trọng. FDI cũng góp phần tái cấu trúc không gian, dịch chuyển đầu tư từ các trung tâm lớn ra các tỉnh vệ tinh, tạo ra các cực tăng trưởng mới như Bắc Ninh, Bắc Giang, Bình Dương, các tỉnh Bắc Trung Bộ.
Bên cạnh đó, với đóng góp lớn vào xuất khẩu, FDI giúp Việt Nam duy trì nguồn thu ngoại tệ và dự trữ ngoại tệ giúp ổn định được tỷ giá trong bối cảnh biến động và sức ép tỷ giá tương đối lớn từ bên ngoài do Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở cao. Về ngân sách, thu từ doanh nghiệp FDI đã tăng liên tục, từ 77 nghìn tỷ VND năm 2011 lên khoảng 243 nghìn tỷ đồng năm 2022, chiếm một tỷ trọng tương đối ổn định khoảng 13-14% tổng thu ngân sách nhà nước.
Về lạm phát, phân tích định lượng cho thấy trong dài hạn, vốn FDI có tác động làm giảm lạm phát trong nước. Dòng vốn này, đặc biệt khi đầu tư vào sản xuất, giúp tăng tổng cung hàng hóa và dịch vụ cho nền kinh tế.
Báo cáo tại tọa đàm cũng cho thấy, dòng FDI thời gian qua đã có tác động rất tích cực tới tạo việc làm, cũng như tác động lan toả về tiền lương tới khu vực trong nước, đem lại lợi ích cho người lao động, tác động tới giảm nghèo và bất bình đẳng...
Giải pháp tạo đột phá trong thu hút FDI
Mặc dù Việt Nam đang nổi lên là một địa điểm đầu tư hấp dẫn nhưng những điểm nghẽn về lao động, hạ tầng sẽ là những điểm yếu cốt lõi cho dòng vốn này. Cách mạng Công nghiệp 4.0 cũng là nhân tố tác động cả tích cực và tiêu cực. Xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng và các mục tiêu công nghiệp hóa đầy tham vọng của Việt Nam, cần có sự thay đổi căn bản trong tư duy chính sách, chuyển từ thu hút FDI bằng mọi giá sang cách tiếp cận chủ động, dẫn dắt và điều hướng dòng vốn FDI phục vụ hiệu quả các mục tiêu quốc gia.
Bên cạnh những cải cách về thể chế, hành chính hiện nay, báo cáo tại tọa đàm đã đưa ra 6 đề xuất nhằm cải cách đột phá trong thu hút và sử dụng FDI, gồm:
Thứ nhất, cần cải tổ toàn diện chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng có mục tiêu, dựa trên hiệu quả và có điều kiện ràng buộc, chấm dứt ưu đãi dàn trải.
Thay vào đó, xây dựng một khung ưu đãi mới, có chọn lọc cao, trong đó mức độ ưu đãi phụ thuộc trực tiếp vào kết quả thực hiện các cam kết của dự án FDI thông qua: Tỷ lệ chi tiêu cho R&D (nghiên cứu và phát triển) tại Việt Nam; mức độ chuyển giao công nghệ; tỷ lệ nội địa hóa; và mức độ đầu tư vào đào tạo nhân lực chất lượng cao. Đi kèm với những cải cách này là cải tổ căn bản chính sách công nghiệp ở Việt Nam, tạo điều kiện để dòng FDI lan toả tác động tích cực về công nghệ, năng suất.
Thứ hai, tăng cường năng lực cho doanh nghiệp trong nước và xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ thực chất. Triển khai "chương trình phát triển nhà cung cấp cấp quốc gia" để hỗ trợ toàn diện các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ tiềm năng về quản trị, công nghệ và tiếp cận tín dụng. Xây dựng nền tảng kết nối giữa doanh nghiệp FDI và nhà cung ứng trong nước để giải quyết vấn đề thiếu thông tin.
Cung cấp các gói hỗ trợ phù hợp với từng quy mô doanh nghiệp và đặc thù ngành nghề để biến mối liên kết tiêu cực thành có lợi. Các giải pháp này đòi hỏi sự can thiệp có chọn lọc của nhà nước, từ việc tạo thị trường cho tới việc đầu tư vào R&D quốc gia và thu hút FDI cam kết chuyển giao công nghệ thực chất.
Thứ ba, đột phá trong phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Thúc đẩy mô hình hợp tác chiến lược "Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp FDI" một cách thực chất. Khuyến khích các tập đoàn công nghệ lớn tham gia sâu vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo, tài trợ phòng thí nghiệm và tiếp nhận sinh viên thực tập. Đồng thời, có chính sách đột phá để thu hút và giữ chân các tài năng công nghệ.
Thứ tư, thiết lập khung quản trị thu hút FDI có sự phối hợp liên ngành, liên vùng. Xây dựng cơ chế điều phối cấp quốc gia để phân định rõ vai trò giữa trung ương và địa phương, nhằm chấm dứt "cuộc đua xuống đáy" về ưu đãi giữa các tỉnh, đảm bảo thu hút FDI có quy hoạch và chiến lược thống nhất.
Thứ năm, tăng cường năng lực quản trị môi trường đối với FDI. Siết chặt việc thực thi pháp luật môi trường, áp dụng quy trình đánh giá tác động môi trường một cách độc lập và minh bạch, đồng thời tăng nặng các chế tài xử phạt. Song song, tiếp tục hoàn thiện chính sách để khuyến khích và thu hút FDI xanh, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Thứ sáu, nâng cao năng lực thể chế và hiệu quả thực thi chính sách. Nâng cao năng lực thẩm định dự án cho cán bộ địa phương. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường minh bạch và quyết liệt giảm chi phí không chính thức để tạo môi trường kinh doanh thực sự công bằng.
Thanh Bình