GS,TS. Hoàng Văn Cường: Phối hợp chính sách tài khóa - tiền tệ để cân bằng vĩ mô - lạm phát - tăng trưởng

31/07/2025 - 15:23
(Bankviet.com) Sự phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong thời gian qua là điểm sáng trong điều hành kinh tế vĩ mô của Việt Nam, giúp duy trì tăng trưởng ổn định giữa bối cảnh thế giới nhiều biến động. Tuy nhiên, để cân bằng đa mục tiêu: kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng bền vững, chính sách tài khóa cần đổi mới theo hướng kiến tạo; chính sách tiền tệ cần tiếp tục linh hoạt và hiệu quả.
gs.-ts-hoang-van-cuong-1.png
GS.TS Hoàng Văn Cường - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội

Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ đã có cuộc trao đổi với GS,TS. Hoàng Văn Cường - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ, Ủy viên Ủy ban Kinh tế Tài chính của Quốc hội về sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô thời gian qua, cũng như định hướng phát triển thời gian tới.

Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong điều hành kinh tế vĩ mô thời gian qua?

GS,TS. Hoàng Văn Cường: Thời gian qua, không chỉ là đánh giá từ trong nước mà các tổ chức quốc tế cũng nhìn nhận Việt Nam là điểm sáng về tăng trưởng kinh tế. Việt Nam duy trì được tăng trưởng cao, đều và liên tục trong khi vẫn đảm bảo các chỉ số vĩ mô ổn định. Đặc biệt, trong bối cảnh kinh tế thế giới bất ổn sau đại dịch, lạm phát toàn cầu tăng cao, Việt Nam vẫn kiểm soát được lạm phát, giữ ổn định tỷ giá, thâm hụt ngân sách không vượt mức quy định và nợ công tiếp tục giảm.

Chính sự ổn định vĩ mô này đã tạo ra niềm tin cho các nhà đầu tư, giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn khi giá trị vốn đầu tư và đồng tiền được bảo toàn. Để đạt được kết quả đó, hai công cụ điều hành chủ đạo là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đã phối hợp chặt chẽ, linh hoạt và hiệu quả.

Chính sách tài khóa đóng vai trò hỗ trợ cho chính sách tiền tệ, giúp giảm bớt các cú sốc bất thường, từ đó tạo điều kiện cho tiền tệ phát huy vai trò thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng. Chính sách tiền tệ thì được điều hành rất linh hoạt, hiệu quả, đặc biệt, đặc biệt là chuyển rất nhanh từ trạng thái ưu tiên ổn định vĩ mô sang ưu tiên về tăng trưởng.

Trong thời kỳ tình hình thế giới đang nhiều biến động thì Việt Nam đặt mục tiêu trọng tâm là ổn định kinh tế vĩ mô. Nhưng khi có dấu hiệu phục hồi thì Việt Nam lại rất kịp thời chuyển từ trạng thái ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô sang thúc đẩy tăng trưởng. Trong đó, việc hạ lãi suất là nước đi rất tiên phong của Việt Nam khi nhìn thấy các tín hiệu tốt và có tiềm lực tốt. Đặc biệt, dù chuyển trạng thái nhanh nhưng vẫn đảm bảo sự ổn định cần thiết, không tạo ra cú sốc lạm phát. Lãi suất được duy trì ổn định, thậm chí giảm đối với các lĩnh vực ưu tiên ở một số giai đoạn.

Mặt khác, trong bối cảnh thị trường thế giới nhiều biến động, tác động vào các nền kinh tế mở là tỷ giá biến động mạnh. Tuy nhiên, tại Việt Nam, tỷ giá đã có sự điều chỉnh khá linh hoạt để phối hợp với lãi suất, nhờ đó, không tạo ra tình trạng biến động về tỷ giá quá lớn, cũng không xảy ra tình trạng thắt chặt tiền tệ, tăng lãi suất nhằm ổn định tỷ giá. Có thể nói, việc điều chỉnh tỷ giá linh hoạt giúp thị trường ngoại hối ổn định trong bối cảnh biến động quốc tế mạnh mẽ, tạo ra sự cân bằng giữa tỷ giá và lãi suất. Điều này thể hiện rõ vai trò và năng lực điều hành chính sách tiền tệ chủ động của Ngân hàng Nhà nước, không đơn thuần theo cơ chế thị trường.

Tôi cho rằng, nhờ sự phối hợp hiệu quả giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, Việt Nam giữ được giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô và từ đó có dư địa để tiếp tục đầu tư cho tăng trưởng.

Phóng viên: Chính sách tài khóa được kỳ vọng đóng vai trò dẫn dắt trong hỗ trợ tăng trưởng, nhưng giải ngân đầu tư công vẫn đang là vấn đề khi 6 tháng đầu năm mới đạt 29,6% kế hoạch năm và 32,5% kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ giao. Theo ông, đâu là nút thắt lớn nhất khiến dòng tiền tài khóa chưa phát huy hiệu quả?

GS,TS. Hoàng Văn Cường: Giải ngân đầu tư công trong 6 tháng đầu năm 2025 đạt 29,6% kế hoạch năm và 32,5% kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ giao. So với cùng kỳ năm 2024, kết quả này đã có cải thiện cho thấy sự nỗ lực của các cấp, các ngành.

Tuy nhiên, tiến độ này vẫn còn thấp so với yêu cầu. Có nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân truyền thống và nguyên nhân phát sinh mới.

Thứ nhất, giải phóng mặt bằng tiếp tục là điểm nghẽn, trong đó có cả yếu tố lịch sử và chính sách. Việc chuyển tiếp giữa luật cũ và luật mới trong bồi thường, hỗ trợ đã khiến một số dự án đang triển khai gặp khó khăn do chồng chéo về quy định.

Thứ hai, đầu tư công thời gian qua tập trung chủ yếu vào hạ tầng giao thông - có quy mô lớn và khối lượng triển khai dồn dập dẫn đến nguồn vật liệu xây dựng khan hiếm, giá cả tăng cao, ảnh hưởng đến tiến độ.

Thứ ba, quá trình thay đổi tổ chức bộ máy tại một số đơn vị cũng ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện, vì cần thời gian để bàn giao, phân công lại nhiệm vụ.

Thứ tư, những dự án sử dụng vốn vay quốc tế ODA cũng có những yếu tố giải ngân chậm hơn so với trong nước do phụ thuộc vào các nhà cung cấp vốn dẫn đến điều chỉnh chậm hơn.

Thứ năm, các chương trình mục tiêu quốc gia dù đã xác định đối tượng rõ ràng nhưng khâu chuẩn bị dự án cụ thể còn chậm nên chưa thể giải ngân hiệu quả.

Để khắc phục, cần đẩy nhanh hoàn thiện bộ máy tổ chức, điều chỉnh chính sách bồi thường giải phóng mặt bằng để thuận lợi hơn cho người dân, đồng thời, cần chính sách quản lý vật liệu xây dựng chủ động hơn. Quan trọng hơn cả là cần phát huy tính quyết liệt của các cơ quan chủ quản và chủ đầu tư: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong khuôn khổ pháp luật. Tư tưởng cải cách pháp luật hiện nay đã cho phép phân quyền mạnh mẽ cho địa phương và người thực thi, nên cần tận dụng để tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ.

Phóng viên: Vậy theo ông, để hướng tới tăng trưởng bền vững, chính sách tài khóa cần thay đổi như thế nào về tư duy điều hành trong thời gian tới?

GS,TS. Hoàng Văn Cường: Việt Nam đang xây dựng hệ thống luật pháp mang tính chất hỗ trợ, điều hành, dẫn dắt, quản lý theo kết quả đầu ra chứ không phải quản lý đầu vào theo quy trình. Việt Nam cũng đang hướng đến xây dựng Chính phủ kiến tạo cho phát triển. Chính phủ kiến tạo thì tài khóa là công cụ kinh tế của Chính phủ cũng phải đi theo hướng là tài khóa kiến tạo, tạo ra các tiền đề để hỗ trợ phát triển.

Nghĩa là chính sách tài khóa cần chuyển trọng tâm từ hỗ trợ ngắn hạn sang tạo nền tảng dài hạn. Tài khóa kiến tạo là phải tạo điều kiện, tiền đề cho phát triển, tập trung ở cả góc độ thu và chi.

Theo đó, về thu, cần cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công bằng và không tạo áp lực cho người nộp thuế. Đồng thời, phải tính đến mở rộng các đối tượng có thể tạo ra nguồn thu như: đánh thuế hoạt động số, tài sản số, kinh tế số…

Đặc biệt, cần có công cụ thuế quản lý bất động sản và đất đai. Đây là một trong những nguồn thu khá lớn ở các quốc gia phát triển. Hiện Việt Nam đang bỏ ngỏ thuế bất động sản, dẫn đến có thể tạo nên hệ lụy là thúc đẩy những người có tiền đầu cơ, buôn bán trao tay gây lũng đoạn thị trường, tạo ra tình trạng không lành mạnh.

Về chi, cần khai tác tối đa dư địa nợ công thấp để đầu tư vào các lĩnh vực có tính bứt phá, nhất là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thậm chí là đầu tư mạo hiểm. Bởi nếu không mạnh dạn đầu tư vào dự án này sẽ không tạo ra được bước phát triển đột biến, khai thác các nguồn lực, lợi thế của các vùng, các miền. Muốn có phát triển nhảy vọt dựa vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thì không thể không có đầu tư.

Đồng thời, phương thức đầu tư công cũng cần thay đổi, thay vì chỉ nhà nước đầu tư thì cần khuyến khích tư nhân tham gia thông qua hình thức PPP, đặt hàng, hợp tác…

Ngoài ra, chính sách tài khóa bên cạnh thúc đẩy tăng trưởng đầu tư thì cũng phải khuyến khích cho tiêu dùng. Vừa qua, Chính phủ đã quyết định giảm thuế VAT đến hết năm 2025. Tới đây, sẽ điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân.

Bên cạnh đó, có những khoản hỗ trợ cho tiêu dùng, điển hình như nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc khánh (2/9/1945 – 2/9/2025), có chính sách để người dân tham gia vào không khí chung của cả nước như: tri ân, hỗ trợ những người từ 80 tuổi trở lên sinh ra và lớn lên cùng đất nước hoặc những người có công với đất nước. Những điều này sẽ tạo ra động lực về tiêu dùng rất mạnh mẽ trong toàn xã hội; tạo nên khí thế cho xã hội. Đó là cách dùng chính sách tài khóa để thúc đẩy tiêu dùng, từ đó quay ngược trở lại thúc đẩy tăng trưởng.

Phóng viên: Trong bối cảnh tỷ giá, lãi suất và dòng vốn quốc tế còn nhiều biến động, theo ông, điều hành chính sách tiền tệ phải làm sao để cân bằng hiệu quả 3 mục tiêu: ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng bền vững?

GS,TS. Hoàng Văn Cường: Ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng bền vững là bài toán đa mục tiêu. Các mục tiêu lớn này thậm chí không cùng chiều, hoặc mâu thuẫn, như thúc đẩy tăng trưởng thường kéo theo vấn đề lạm phát. Do đó, điều hành chính sách tiền tệ để cân bằng hiệu quả cả 3 mục tiêu là rất khó, đòi hỏi phải cực kỳ linh hoạt và hiệu quả.

Đầu tiên là cần phối hợp chặt giữa lãi suất và tỷ giá - hai công cụ chính của chính sách tiền tệ. Trong bối cảnh xuất khẩu có thể gặp khó khăn do tác động của các chính sách quốc tế, dự trữ ngoại hối cần được đảm bảo đủ, tỷ giá cần điều chỉnh phù hợp. Đồng thời, cần có chính sách khuyến khích giữ ngoại tệ trong nước, đặc biệt là từ các doanh nghiệp xuất khẩu, tránh để nguồn ngoại tệ chảy ra nước ngoài qua các công ty mẹ.

Hai là để thúc đẩy tăng trưởng phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung tín dụng. Thị trường vốn của Việt Nam vẫn đang phụ thuộc chủ yếu vào vốn tín dụng ngân hàng. Các nguồn vốn từ trái phiếu, chứng khoán chiếm tỷ trọng khá nhỏ. Do vậy, vai trò của cung tín dụng đối với tăng trưởng đang đặt ra yêu cầu rất lớn.

Điều hành chính sách tiền tệ và tăng cung tín dụng cho nền kinh tế với lãi suất thấp mà vẫn kiểm soát được lạm phát là việc rất khó. Tăng cung tín dụng nhưng không để lượng tiền trong lưu thông dư thừa. Do vậy, cần mở rộng cung tín dụng nhưng phải kiểm soát chặt dòng tiền. Cần đảm bảo vốn đến đúng khu vực cần thiết cho sản xuất, có khả năng quay vòng nhanh, không bị thất thoát.

Cùng với đó, chính sách tiền tệ cũng cần phối hợp chặt với chính sách tài khóa để hỗ trợ đối tượng ưu tiên tiếp cận vốn: thông qua bảo lãnh tín dụng, ưu đãi lãi suất, hoặc các gói tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, đổi mới sáng tạo, lĩnh vực ưu tiên.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!

Minh Đức

Theo: Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ