Hợp tác Việt - Nga hướng tới năng lượng tái tạo và công nghiệp

20/11/2025 - 23:56
(Bankviet.com) Các ý kiến thảo luận tại Diễn đàn khoa học Việt - Nga nằm thúc đẩy hợp tác công nghiệp và năng lượng, điện gió ngoài khơi trở thành trụ cột mới.
  • Trường Cao đẳng Kinh tế Công nghiệp Hà Nội đổi mới công tác tuyển sinh 2025
  • Đến năm 2030, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP
  • Bắc Ninh cân bằng hệ sinh thái sản xuất từ cụm công nghiệp

Chiều 20/11, Diễn đàn khoa học Việt - Nga về xúc tiến công nghiệp, công nghệ và đổi mới sáng tạo khai mạc tại Hà Nội với sự tham dự của Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài; Thứ trưởng Bộ Công Thương Liên bang Nga Aleksey Gruzdev cùng đại diện các cơ quan quản lý, viện nghiên cứu và doanh nghiệp hai nước. Tại phiên thảo luận, các chuyên gia Việt Nam và Nga đã đưa ra nhiều phân tích quan trọng, mở ra những định hướng hợp tác mới trong lĩnh vực công nghiệp và năng lượng.

Toàn cảnh diễn đàn

Nền tảng tăng trưởng và định hướng đến 2030

Theo ThS. Nguyễn Mạnh Linh (Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương), dù đối mặt không ít thách thức, khu vực công nghiệp Việt Nam vẫn duy trì đà tăng trưởng ổn định, tiếp tục là trụ cột của nền kinh tế và là điểm sáng trong bức tranh kinh tế toàn cầu. Năm 2024, giá trị tăng thêm (VA) của ngành đạt 3,64 triệu tỷ đồng, tương đương 31,6% GDP. Dự kiến năm 2025, con số này có thể lên tới khoảng 4 triệu tỷ đồng, tăng gần 9% so với năm 2024, cho thấy dư địa phát triển rất lớn.

ThS. Nguyễn Mạnh Linh - Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương chia sẻ về tiềm năng ngành công nghiệp Việt Nam

Cơ cấu nội ngành cũng có sự chuyển đổi theo hướng tích cực. Công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò chủ đạo với tỷ trọng 77,3% VA toàn ngành, tăng 0,6% so với năm 2015. Ngành sản xuất và phân phối điện tăng lên 13,3%, trong khi khai khoáng giảm mạnh còn 7,9%, phản ánh xu hướng chuyển dịch sang các ngành có giá trị gia tăng cao và ứng dụng công nghệ hiện đại. Việt Nam hiện đứng thứ 4 ASEAN và thứ 30 thế giới về Chỉ số Năng lực cạnh tranh công nghiệp (CIP) do UNIDO xếp hạng, một bước tiến thể hiện rõ sự trỗi dậy của ngành chế biến, chế tạo.

Bên trong nội ngành, những lĩnh vực công nghệ cao như điện, điện tử, chế tạo máy móc và thiết bị tiếp tục gia tăng tỷ trọng. Ngược lại, các ngành thâm dụng tài nguyên và lao động đang thu hẹp dần. Xu hướng này phù hợp với mục tiêu phát triển công nghiệp theo chiều sâu, dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Hướng tới năm 2030, công nghiệp Việt Nam đặt trọng tâm vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao như công nghiệp nền tảng, công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp số. Trong lĩnh vực năng lượng, Việt Nam thúc đẩy chuyển đổi năng lượng công bằng, ưu tiên các nguồn điện xanh và sạch bao gồm điện tái tạo, điện khí LNG và nghiên cứu trở lại điện hạt nhân. Cùng với đó, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, tái cấu trúc ngành và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực được xác định là các trụ cột của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Nghị quyết 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII nêu rõ mục tiêu đến năm 2030 xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, từng bước làm chủ các công nghệ lõi, nằm trong nhóm 3 quốc gia dẫn đầu ASEAN về năng lực cạnh tranh công nghiệp. Tỷ trọng công nghiệp hướng tới trên 40% GDP và riêng chế biến - chế tạo đạt khoảng 30% GDP. Đặc biệt, tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao trong ngành chế biến - chế tạo phải vượt 45%, giá trị gia tăng bình quân đầu người trong ngành đạt trên 2.000 USD.

ThS. Nguyễn Mạnh Linh nhận định Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga là một trong những mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện lâu bền, xuất phát từ tình hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Liên Xô. 

Năng lượng sạch: Trụ cột mới trong quan hệ Việt Nam - Nga

Cũng tại diễn đàn, TS. Trịnh Minh Anh, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương, khẳng định hợp tác phát triển công nghiệp và công nghệ trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi, không chỉ là minh chứng sống động cho tình hữu nghị truyền thống lâu đời và mối quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Liên Bang Nga mà còn mở ra một chương mới đầy hứa hẹn trong hợp tác kinh tế song phương, tập trung vào các lĩnh vực tiên phong toàn cầu. 

Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt lịch sử trong chuyển dịch năng lượng, nơi năng lượng tái tạo đã trở thành mệnh lệnh chiến lược cho sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Với nền tảng hợp tác vững chắc được xây dựng nhiều thập kỷ, Việt Nam hoàn toàn có thể đưa năng lượng sạch trở thành trụ cột mới trong quan hệ Việt Nam - Nga của thế kỷ 21.

TS. Trịnh Minh Anh đề xuất các phương án hợp tác về năng lượng 

Theo TS. Trịnh Minh Anh, để hiện thực hóa tiềm năng và đạt mục tiêu 6 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030, hợp tác cần tập trung vào phát triển và chuyển giao công nghệ nền tảng, đặc biệt là công nghệ móng nổi cho vùng nước sâu có tốc độ gió lý tưởng nhưng yêu cầu công nghệ phức tạp.

Việt Nam và Nga có thể phối hợp trong thiết kế, chế tạo và thử nghiệm các mô hình móng nổi thế hệ mới, đồng thời phát triển các hệ thống truyền tải điện một chiều cao áp (HVDC) và giải pháp quản lý lưới điện thông minh (Smart Grid) để tích hợp nguồn điện gió lớn và không ổn định vào hệ thống điện quốc gia một cách an toàn và hiệu quả.

Bên cạnh đó, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước cũng được coi là yếu tố then chốt. Việt Nam đặt mục tiêu không chỉ sản xuất điện mà còn xây dựng một ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi độc lập và bền vững. Hợp tác với các tập đoàn Nga trong việc thành lập liên doanh sản xuất các cấu kiện điện gió quy mô lớn tại Việt Nam, tập trung vào tháp turbine, móng và cánh quạt, có thể nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, giảm chi phí sản xuất và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Song song với đó, các cảng dịch vụ chuyên dụng cũng cần được xây dựng và quản lý để phục vụ lắp ráp, lưu trữ và vận chuyển các cấu kiện siêu trường, siêu trọng cho dự án điện gió ngoài khơi.

Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quyết định cho sự thành công của dự án. Việt Nam cần đào tạo thế hệ kỹ sư và thợ kỹ thuật mới thông qua các chương trình đào tạo chuyên sâu về vận hành, bảo dưỡng, an toàn lao động hàng hải và quản lý dự án ngoài khơi, tận dụng kinh nghiệm đào tạo sẵn có của Nga. 

Đồng thời, hợp tác nghiên cứu giữa các viện nghiên cứu Việt Nam và các tổ chức khoa học công nghệ Nga trong lĩnh vực khí tượng, hải dương học và dự báo tài nguyên gió ngoài khơi sẽ giúp nâng cao năng lực dự báo và tối ưu hóa khai thác nguồn năng lượng tái tạo.

Về cơ chế tài chínhchính sách, TS. Trịnh Minh Anh đề xuất thành lập Quỹ Xúc tiến Công nghệ Xanh Việt - Nga, sử dụng nguồn vốn song phương hoặc từ các định chế tài chính Nga để hỗ trợ các dự án nghiên cứu, phát triển công nghệ và doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng điện gió. Cùng với đó, việc chia sẻ kinh nghiệm xây dựng khung pháp lý và cơ chế chính sách đặc thù sẽ giúp thu hút đầu tư quốc tế và tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án điện gió phức tạp, đặc biệt liên quan đến định giá điện và cơ chế đấu thầu.

TS. Trịnh Minh Anh nhấn mạnh, trong suốt quá trình phát triển, Liên bang Nga luôn là đối tác chiến lược tin cậy và thủy chung của Việt Nam. Hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi không chỉ giúp Việt Nam đảm bảo an ninh năng lượng và thực hiện cam kết Net Zero mà còn củng cố vị thế của cả hai quốc gia trên bản đồ năng lượng toàn cầu. Sự hợp tác này dựa trên niềm tin chiến lược và lợi ích chung, nơi thế mạnh công nghệ của Nga gặp gỡ tiềm năng tài nguyên và nhu cầu phát triển của Việt Nam. 

Với tinh thần hợp tác cao và niềm tin vững chắc vào tương lai, nếu các tập đoàn, doanh nghiệp và nhà khoa học Việt Nam - Liên Bang Nga cùng bắt tay, hành động quyết liệt, những đề xuất chiến lược này hoàn toàn có thể trở thành hiện thực trong thời gian tới.

Lê An
Theo: Báo Công Thương
Chủ đề:công nghiệp