Phóng viên: Sau hơn 30 năm thành lập và phát triển hệ thống QTDND được thành lập, xây dựng, củng cố và phát triển, dưới góc độ là chuyên gia tài chính tín dụng và là người tâm huyết đào tạo nguồn nhân lực cho hệ thống QTDND ông có nhận định về những kết quả đạt được cũng như những tồn tại của hệ thống QTDND giai đoạn 2021 - 2025?
TS. Trần Thanh Long: Có thể nói trong hơn 30 năm qua, hệ thống QTDND tại Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng, định vị được vai trò trong hệ sinh thái tài chính vi mô. Hệ thống QTDND đã và đang khẳng định vị trí then chốt trong lộ trình phát triển tài chính toàn diện tại Việt Nam. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 và những biến động kinh tế - tài chính toàn cầu giai đoạn 2021 – 2023, QTDND không những không bị “đứt gãy” mà còn chứng minh được “sức đề kháng” mạnh mẽ. Năng lực phục hồi và duy trì thanh khoản tốt cho thấy mô hình QTDND – với đặc trưng “am hiểu địa bàn, am hiểu thành viên” – vẫn có giá trị thực tiễn cao.
Hệ thống QTDND đã thể hiện được khả năng huy động và cho vay quy mô nhỏ hiệu quả. Trong khi nhiều tổ chức tín dụng (TCTD) lớn thu hẹp tín dụng do rủi ro gia tăng, các QTDND lại duy trì được tốc độ tăng trưởng tín dụng ổn định ở mức 8 – 10%/năm (giai đoạn 2021 – 2024). Đáng chú ý, trên 90% dư nợ tín dụng tập trung vào khu vực sản xuất nông nghiệp, nông thôn và hộ kinh doanh cá thể – đối tượng thường bị các ngân hàng thương mại “bỏ quên” do chi phí phục vụ cao và rủi ro tín dụng lớn. Hệ thống QTDND đã góp phần rất lớn trong việc cung ứng vốn theo cách “gần dân”, “sát dân”, từ đó hạn chế tình trạng “tín dụng đen”, đặc biệt là ở khu vực nông thôn.
Các QTDND đã từng bước đổi mới trong quản trị và vận hành. Một số QTDND đã chủ động triển khai các mô hình quản trị theo hướng hiện đại, minh bạch hơn, từng bước tách bạch vai trò Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban điều hành. Sự hỗ trợ của Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức quốc tế trong đào tạo, chuyển giao công nghệ bước đầu tạo nền tảng cho quá trình chuyển đổi số.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì trong quá trình phát triển, hệ thống QTDND cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định: Mô hình quản trị còn thiên về “tự phát”, làm theo thói quen, tập quán và thiếu chuyên nghiệp. Nhiều QTDND hiện vẫn chịu ảnh hưởng sâu sắc của mô hình tín dụng hợp tác truyền thống – nơi mối quan hệ xã hội, gia đình lấn át các nguyên tắc quản trị. Việc HĐQT nhiều nơi do những người thiếu chuyên môn đảm nhiệm dẫn đến hiện tượng “hành chính hóa” hoạt động tín dụng, thiếu kiểm soát nội bộ, thậm chí xảy ra sai phạm về đạo đức nghề nghiệp và lợi dụng quyền lực.
Rủi ro tín dụng tích tụ và thiếu cơ chế phòng ngừa hiệu quả. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống QTDND hiện vẫn được kiểm soát dưới ngưỡng cho phép (dưới 3%), nhưng tiềm ẩn rủi ro tăng cao do phụ thuộc vào tài sản thế chấp không được định giá chuyên nghiệp; quy trình thẩm định tín dụng ở nhiều nơi còn sơ sài; thiếu cơ chế chấm điểm tín dụng nội bộ và cảnh báo sớm. Điều này làm cho khả năng phản ứng của các QTDND với các “cú sốc” vĩ mô còn thấp, đặc biệt trong bối cảnh lãi suất biến động mạnh và giá cả đầu vào – đầu ra của sản xuất nông nghiệp không ổn định.
Chưa có định hướng chiến lược rõ ràng để hướng đến phát triển bền vững. Một thực trạng nhức nhối hiện nay là nhiều QTDND hoạt động xa rời sứ mệnh, tôn chỉ và chủ yếu chạy theo lợi nhuận ngắn hạn. Về lâu dài đã làm cho hoạt động của QTDND không còn đúng bản chất của mô hình QTDND, đó là tương trợ giữa các thành viên của QTDND. Nhiều QTDND đang cố phát mở rộng quy mô để phát triển, cạnh tranh với các NHTM và các tổ chức tài chính khác mà không bám sát đặc trưng, thế mạnh của mô hình QTDND.
Các QTDND đang “rất chậm” trong chuyển đổi số – trong so sánh tương quan với các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, thậm chí là so với các tổ chức tài chính vi mô (TCVM) tại Việt Nam. Nhiều QTDND vẫn sử dụng hệ thống phần mềm kế toán – tín dụng đơn giản, chủ yếu phục vụ nội bộ. Chưa có mô hình ngân hàng số vi mô phù hợp với đặc thù cộng đồng. Việc tích hợp dữ liệu, khai thác trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý rủi ro, phân tích tín dụng hay dịch vụ khách hàng gần như vắng bóng.
Phóng viên: Với vai trò, trách nhiệm của Ngân hàng Hợp tác xã đối với hoạt động QTDND thành viên về công tác chuyển đổi số, điều hòa vốn và chăm sóc các QTDND thành viên… theo ông nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm Ngân hàng Hợp tác xã cần có giải pháp khả thi nào để các QTDND hoạt động an toàn hiệu quả và phát triển bền vững trong bối cảnh thay đổi tổ chức chính quyền hai cấp?
TS. Trần Thanh Long: Do thay đổi mô hình tổ chức chính quyền địa phương từ 3 cấp sang 2 cấp không chỉ là sự điều chỉnh về hành chính, mà còn đặt ra những thách thức và yêu cầu mới đối với hệ thống QTDND – một mô hình tài chính mang đậm tính địa phương, gắn bó mật thiết với cộng đồng dân cư cấp xã, phường. Trong bối cảnh đó, vai trò của Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (NHHTX) – tổ chức đầu mối, hỗ trợ và điều tiết hệ thống QTDND, trở nên đặc biệt quan trọng. Để các QTDND hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, NHHTX cần triển khai một chiến lược ba “trụ cột”, gồm: (1) nâng cao năng lực điều phối hệ thống; (2) thúc đẩy chuyển đổi số phù hợp đặc thù; và (3) tái cấu trúc mô hình hỗ trợ thành viên.
Thứ nhất, nâng cao năng lực điều phối hệ thống – từ “ngân hàng đầu mối” đến “trung tâm điều tiết thông minh”. Một thực tế đáng chú ý là hiện nay, mức độ liên kết và hợp tác giữa các QTDND còn khá lỏng lẻo, chủ yếu mang tính hình thức. NHHTX cần chuyển vai trò từ một đơn vị cung ứng vốn đơn thuần sang một trung tâm điều phối hệ thống thông minh, cụ thể: Áp dụng mô hình điều tiết thanh khoản tập trung: Xây dựng hệ thống giám sát dòng tiền theo thời gian thực, phân tích và cảnh báo tình trạng thừa – thiếu vốn cục bộ trong hệ thống QTDND, từ đó điều tiết hiệu quả.
Tăng cường công cụ hỗ trợ phòng ngừa rủi ro hệ thống: Phát triển các quỹ dự phòng, cơ chế bảo hiểm rủi ro tập thể, cơ chế “can thiệp mềm” khi có dấu hiệu mất an toàn.
Sự điều phối này không chỉ mang tính kỹ thuật, mà còn đóng vai trò tạo dựng niềm tin lẫn nhau giữa các QTDND – một yếu tố cốt lõi cho phát triển bền vững.
Thứ hai, thúc đẩy chuyển đổi số – không chạy theo “hình thức công nghệ”, mà là “chuyển đổi đúng mục tiêu”. Chuyển đổi số với QTDND không thể giống các ngân hàng thương mại. Với quy mô nhỏ, địa bàn hẹp, đối tượng khách hàng chủ yếu là người dân nông thôn, chuyển đổi số cần phải “thiết kế riêng” theo nguyên tắc: “đơn giản hóa – tập trung hóa – dễ sử dụng”.
NHHTX có thể triển khai: Nền tảng số dùng chung, tích hợp core banking, mobile app đơn giản, hệ thống kế toán – báo cáo – giám sát theo chuẩn thống nhất. Giải pháp “số hóa theo chiều ngang”, tức là không cần mỗi QTDND phát triển phần mềm riêng, mà sử dụng một hệ thống nền tảng tập trung do NHHTX đầu tư, quản trị – giúp giảm chi phí và rủi ro công nghệ. Tích hợp các tiện ích tài chính số phổ thông, như chuyển tiền nhanh, thanh toán QR, kết nối ví điện tử… phù hợp với người dân nông thôn, vốn ít tiếp cận công nghệ cao.
Chuyển đổi số thành công không chỉ nâng cao hiệu quả vận hành, mà còn là “lá chắn công nghệ” giúp QTDND tăng cường năng lực quản trị rủi ro, đảm bảo minh bạch và kiểm soát tốt hơn.
Thứ ba, tái cấu trúc mô hình hỗ trợ thành viên – từ “cung cấp dịch vụ” sang “đồng hành chiến lược”. Với bối cảnh thay đổi chính quyền địa phương, nhiều QTDND mất đi sự hậu thuẫn hành chính truyền thống. Điều này đòi hỏi NHHTX phải thiết lập lại mô hình tương tác với QTDND, theo hướng: đồng hành chiến lược và huấn luyện liên tục. NHHTX cần xây dựng mô hình “đào tạo tại chỗ”, kết hợp mentor chuyên sâu cho từng nhóm QTDND theo mức độ phát triển. Đánh giá phân tầng QTDND theo tiêu chí năng lực quản trị, tình hình tài chính, mức độ rủi ro… để có chính sách hỗ trợ phù hợp từng nhóm. Thiết lập mạng lưới giám sát mềm, với hệ thống chỉ báo sớm về các rủi ro hoạt động, giúp QTDND phát hiện và xử lý kịp thời.
Đặc biệt, NHHTX nên đóng vai trò trung gian kết nối QTDND với các đối tác bên ngoài như doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức phi chính phủ…, từ đó mở rộng không gian phát triển cho các QTDND thành viên.
Ngoài 3 “trụ cột” nói trên, một điều hết sức quan trọng là cần giải quyết mối quan hệ về niềm tin và sự gắn kết thực chất giữa NHHTX và các QTDND. Bởi hiện nay, ở một chừng mực nào đó, các QTDND vẫn xem NHHTX vừa là ngân hàng đầu mối hỗ trợ nhưng cũng vừa là “đối thủ” trong hoạt động, do có những lợi ích của 2 bên vẫn bị “chồng lấn”. Với tâm lý “phòng thủ”, e ngại nên nhiều định hướng hoạt động của NHHTX sẽ không được các QTDND đồng thuận và phối hợp thực chất, hiệu quả. Do đó, NHHTX cần giải quyết bài toán “lợi ích hài hoà, rủi ro chia sẽ” giữa các bên.
Phóng viên: Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang lấy ý kiến hoàn thiện Đề án cơ cấu lại tổng thể hệ thống QTDND, trong đó tập trung củng cố, chấn chỉnh hệ thống QTDND hoạt động đúng mục tiêu, tôn chỉ của loại hình tổ chức tín dụng là hợp tác xã theo đúng quy định của pháp luật. Dưới góc độ là chuyên gia tài chính tín dụng, theo ông Đề án cần có những giải pháp kha thi ra sao?
TS. Trần Thanh Long: Tôi cho rằng các nội dung trong Đề án cơ cấu lại tổng thể hệ thống QTDND mà NHNN đang dự thảo là có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, tiếp cận rất đúng bản chất vấn đề nhằm hướng hệ thống QTDND tại Việt Nam đến phát triển bền vững, phù hợp với bức tranh tổng thể chung của toàn ngành Ngân hàng.
Như đã nói ở trên, rất nhiều QTDND hiện nay hoạt động chưa đúng tôn chỉ, mục đích, chạy theo lợi nhuận ngắn hạn nên với những định hướng của Đề án nhằm hướng hệ thống QTDND hoạt động theo đúng bản chất mô hình một cách rõ ràng, chặt chẽ và quyết liệt hơn sẽ làm cho một vài QTDND có phản ứng nhất định. Bất kỳ sự thay đổi nào cũng có thể tạo ra những tác động, bất tiện cho một số chủ thể có liên quan, nhưng tôi tin chắc rằng Đề án này là một định hướng đúng và phù hợp với bối cảnh phát triển của hệ thống QTDND.
Theo tôi, Đề án cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, củng cố hệ thống QTDND theo hướng đám bảo an toàn hoạt động; khắc phục dứt điểm các QTDND yếu kém, ngăn ngừa rủi ro mang tính hệ thống, từng bước xây dựng hệ thống QTDND ổn định, phát triển lành mạnh, đáp ứng tốt nhu cầu vốn và dịch vụ tài chính của thành viên.
Thứ hai, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và kiểm soát hệ thống QTDND, trong đó có việc khắc phục tình trạng bị thao túng bới gia đình hoặc một nhóm cá nhân, khiến hoạt động của QTDND phụ thuộc vào nhóm lợi ích riêng lẻ, tiềm ẩn rủi ro và nguy cơ mất kiểm soát. Đồng thời, tăng cường năng lực tài chính của các QTDND nhằm phòng ngừa rủi ro, đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.
Thứ ba, tổ chức và hoạt động QTDND đảm bảo bản chất của mô hình hợp tác xã với mục tiêu chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên thực hiện có hiệu qua các hoạt động sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống của thành viên và phát triển cộng đồng; hoạt động của QTDND thuộc phân khúc tài chính vi mô gắn liền với địa bàn sinh sống của người dân, chủ yếu là khu vực nông nghiệp, nông thôn; chủ yếu chỉ huy động và cho vay thành viên.
Thứ tư, cung cấp đầy đủ dịch vụ tài chính, ngân hàng (thanh toán, chuyển tiền, tiết kiệm, tín dụng, bảo hiểm,...) đáp ứng nhu cầu của các thành viên, khách hàng của QTDND thông qua hoạt động của chính QTDND, làm đại lý nhận ủy thác, hỗ trợ từ NHHTX.
Thứ năm, sắp xếp, tổ chức lại các QTDND đảm bảo sự gần gũi, gắn kết giữa các thành viên và không tạo ra cạnh tranh trong nội bộ hệ thống QTDND từ đó tổ chức lại các QTDND phù hợp với quá trình tổ chức, sắp xếp lại đơn vị hành chính theo chủ trương, phương án của Đảng, Chính phủ.
Phóng viên: Cũng theo Đề án cơ cấu lại tổng thể hệ thống QTDND, trong đó phát triển Ngân hàng Hợp tác xã thực sự trở thành “ngân hàng của các QTDND”, là đầu mối liên kết hệ thống của các tổ chức tín dụng hợp tác, theo ông Ngân hàng Hợp tác xã cần hoàn thiện nâng cao năng lực tài chính, quản trị, điều hành trong thời gian tới như thế nào?
TS. Trần Thanh Long: Một là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý quy định để NHHTX có đủ quyền, đảm bảo thực hiện được vai trò đầu mối, liên kết hệ thống; đầu mối trong công tác kiểm tra, giám sát và hỗ trợ hoạt động của hệ thống QTDND.
Hai là, nâng cao năng lực quản trị, điều hành, kiểm soát và năng lực tài chính của NHHTX trở thành ngân hàng đa năng, hiện đại, hoạt động lành mạnh, hiệu quả và đảm bảo thực hiện đầy đủ vài trò là đơn vị đầu mối liên kết của hệ thống các TCTD là hợp tác xã, là ngân hàng của các ỌTDND.
Ba là, khẳng định vai trò đầu mối của NHHTX thông qua cung cấp dịch vụ ngân hàng, hỗ trợ kỹ thuật, kiểm tra, kiểm toán, giám sát, điều hòa vốn và đảm bảo thanh khoản, góp phần nâng cao năng lực và sự ổn định của các QTDND thành viên.
Bốn là, tăng cường liên kết hệ thống QTDND trên cơ sở NHHTX làm đầu mối xây dựng và chia sẻ các nền tảng chung như công nghệ thông tin, thanh toán, đào tạo, kiểm toán nội bộ và cơ chế bảo đảm an toàn hệ thống, hướng tới hình thành hệ sinh thái hợp tác toàn diện.
Năm là, củng cố niềm tin của thành viên và cộng đồng đối với hệ thống QTDND và NHHTX thông qua truyền thông đồng bộ và các giải pháp cụ thể, nhấn mạnh sức mạnh nội tại của từng QTDND nằm ở sự gắn kết và bảo vệ lẫn nhau trong một hệ thống hợp tác chặt chẽ.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!
ThS. Trần Trọng Triết (thực hiện)