Sửa đổi Nghị định 98: Tăng sức cạnh tranh, hội nhập cho nông sản Việt

16/11/2025 - 18:52
(Bankviet.com) Sửa đổi Nghị định 98/2018/NĐ-CP sẽ tập trung vào cơ chế hỗ trợ theo kết quả, phát triển chuỗi giá trị xanh nhằm tăng khả năng hội nhập nông sản Việt trên thị trường.
  • Đẩy mạnh liên kết chuỗi, tăng năng lực cạnh tranh cho hàng Việt
  • Liên kết chuỗi, nâng tầm thương hiệu cà phê Lâm Đồng
  • Phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị, nâng cao chất lượng nông sản

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.

Vì sao Nghị định 98 cần “làm mới”?

- Liên kết chuỗi đã góp phần giảm thiểu tình trạng “giải cứu nông sản” vốn từng xảy ra phổ biến. Ông có thể cho biết, cơ chế nào của Nghị định 98 đã giúp điều này trở nên khả thi?

Ông Lê Đức Thịnh: Sau hơn 6 năm triển khai, Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp đã tạo ra bước chuyển căn bản trong tư duy và cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Từ chỗ liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp còn mang tính tự phát, thiếu khung pháp lý và ít được kiểm chứng, đến nay, mô hình liên kết đã trở thành phương thức phổ biến, được Nhà nước, doanh nghiệp và hợp tác xã đồng thuận thúc đẩy như một giải pháp trọng tâm trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

Chính sách mới sẽ hỗ trợ chuỗi liên kết đảm bảo truy xuất nguồn gốc, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật. Ảnh minh họa

Cơ chế chủ yếu là ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm, gắn sản xuất với truy xuất nguồn gốc và tiêu chuẩn kỹ thuật, nhờ vậy, nông dân không còn sản xuất đơn lẻ và phụ thuộc thương lái, mà sản xuất theo đơn đặt hàng với hợp đồng rõ ràng. Các hợp tác xã đóng vai trò trung gian, giám sát chất lượng và phối hợp tiêu thụ, giúp giảm rủi ro về giá và nhu cầu thị trường, từ đó hạn chế tình trạng giải cứu nông sản.

Đến cuối năm 2024, cả nước đã hình thành hơn 3.500 mô hình liên kết, với hơn 300.000 hộ nông dân tham gia thông qua gần 2.000 hợp tác xã và tổ hợp tác. Tổng vốn huy động đạt hơn 20.000 tỷ đồng, trong đó doanh nghiệp đóng góp 50 - 60%, thể hiện tinh thần chia sẻ rủi ro.

Tuy nhiên, tính bền vững của liên kết chuỗi còn hạn chế. Nhiều mô hình vẫn chỉ là hợp đồng mua - bán ngắn hạn, thiếu cam kết dài hạn về đầu tư, kỹ thuật hay tiêu chuẩn chất lượng. Khi giá thị trường biến động, doanh nghiệp và nông dân dễ “bẻ kèo”, dẫn đến đứt gãy chuỗi. Thủ tục hỗ trợ còn phức tạp, hạ tầng số và công cụ truy xuất nguồn gốc chưa đồng bộ, năng lực quản trị của hợp tác xã còn yếu, và doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư dài hạn.

Chuyển từ hỗ trợ đầu vào sang hỗ trợ theo kết quả

- Trong bối cảnh đó, sửa đổi Nghị định 98 hướng tới những cải cách nào để nâng cao hiệu quả liên kết?

Ông Lê Đức Thịnh: Sau hơn 6 năm triển khai, Nghị định 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản đã tạo tác động tích cực, nhưng cũng bộc lộ nhiều hạn chế về cơ chế hỗ trợ, thủ tục thực hiện và khả năng thích ứng với bối cảnh mới. Trong giai đoạn tới, việc sửa đổi, hoàn thiện Nghị định cần hướng đến đổi mới tư duy, linh hoạt thể chế, số hóa quản trị và gắn kết với phát triển xanh, phát thải thấp.

Thứ nhất, chuyển từ hỗ trợ đầu vào sang hỗ trợ theo kết quả (Output-Based Aid - OBA). Cơ chế hiện tại chủ yếu cấp vốn dựa trên hồ sơ dự án, trong khi nhiều liên kết không đủ năng lực lập dự án. Chính sách mới cần hỗ trợ dựa trên kết quả thực tế, khi chuỗi liên kết đạt sản lượng bao tiêu trên 70%, có truy xuất nguồn gốc, đạt chứng nhận tiêu chuẩn (VietGAP, GlobalGAP, SRP, hữu cơ) và chứng minh giá trị gia tăng hoặc giảm phát thải, mới được hoàn ứng một phần chi phí đầu tư. Cơ chế này vừa tạo động lực duy trì liên kết, vừa đảm bảo sử dụng ngân sách hiệu quả, minh bạch và công bằng.

Thứ hai, xây dựng nền tảng số quốc gia cho liên kết nông nghiệp. Nền tảng số tích hợp dữ liệu hợp đồng, vùng nguyên liệu, mã vùng trồng, truy xuất nguồn gốc, phát thải carbon và hiệu quả chuỗi giá trị. Doanh nghiệp, HTX, nông dân và cơ quan quản lý có thể truy cập, đối chiếu, và chứng minh tính minh bạch của liên kết. Đây là cơ sở để triển khai quản lý “một cửa số hóa” chuỗi giá trị nông nghiệp, tham gia thương mại quốc tế, tín chỉ carbon và xuất khẩu cao cấp.

Thứ ba, liên kết gắn với chuyển đổi xanh, phát thải thấp và thương mại carbon. Các chuỗi liên kết cần đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, sử dụng tài nguyên hiệu quả, quản lý rơm rạ, hạn chế đốt, giảm phát thải. Chính sách hỗ trợ nên khuyến khích mô hình có đo đạc, báo cáo, thẩm định phát thải (MRV), sản xuất hữu cơ, tuần hoàn và tích lũy tín chỉ carbon. Nhà nước cần hướng dẫn kỹ thuật và thí điểm “chuỗi giá trị carbon thấp” để dần hình thành thị trường carbon nông nghiệp.

Đơn giản thủ tục, minh bạch và thúc đẩy chuỗi giá trị bền vững

- Còn về năng lực tổ chức và hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã thì sao, thưa ông?

Ông Lê Đức Thịnh: Chúng tôi đề xuất phát triển hệ sinh thái tư vấn liên kết chuyên nghiệp. HTX và doanh nghiệp nhỏ thường yếu về lập kế hoạch, quản lý hợp đồng và chuẩn hóa quy trình. Nhà nước sẽ đặt hàng các tổ chức tư vấn, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp dịch vụ để cung cấp đào tạo, tư vấn kỹ thuật và hỗ trợ lập kế hoạch liên kết. Đây là “đầu tư vào năng lực” thay vì hỗ trợ ngắn hạn, giúp hệ thống liên kết vận hành thực chất và tự chủ hơn.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Ảnh: N.H

Trọng tâm sửa đổi Nghị định 98 cần hướng đến đơn giản hóa thủ tục, tăng tính minh bạch và khuyến khích liên kết theo chuỗi giá trị bền vững. Trước hết, cần sửa đổi Điều 4 (Nội dung liên kết), cần mở rộng không chỉ “sản xuất - tiêu thụ” mà còn bao gồm truy xuất nguồn gốc điện tử, tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý rơm rạ, đo lường và chia sẻ tín chỉ carbon. Bắt buộc cam kết chia sẻ rủi ro, cơ chế điều chỉnh giá và giải quyết tranh chấp.

Về Điều 5 (Điều kiện hỗ trợ), đề xuất sửa đổi theo hướng cho phép công bố hợp đồng chịu trách nhiệm pháp lý, sử dụng hợp đồng điện tử thay cho bản giấy, giảm thủ tục hành chính. Về Điều 6 - 9 (chính sách hỗ trợ), cần bổ sung hỗ trợ truy xuất điện tử, đo phát thải MRV, nền tảng số, thương mại điện tử, bảo hiểm nông nghiệp, cơ chế chia sẻ rủi ro, trong đó cơ chế OBA cho phép hoàn ứng tối đa 30% chi phí đầu tư nếu đạt tiêu chí. Điều 7a (mới), phát triển hệ sinh thái tư vấn liên kết, công bố danh sách tổ chức tư vấn đủ điều kiện, cung cấp công cụ kỹ thuật, cơ chế đồng chi trả chi phí tư vấn.

Ngoài ra, còn phát triển nền tảng số quốc gia tích hợp dữ liệu vùng nguyên liệu, mã vùng trồng, hợp đồng, sản lượng, truy xuất nguồn gốc, phát thải và chứng nhận; đồng bộ dữ liệu với các chương trình OCOP, vùng nguyên liệu, Đề án "Phát triển bền vững một triệu hécta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030".

- Ông đánh giá cơ chế tài chính và đầu tư sẽ đóng vai trò ra sao trong liên kết nông nghiệp bền vững?

Ông Lê Đức Thịnh: Cần áp dụng cơ chế đồng đầu tư công - tư (PPP) để phát triển hạ tầng vùng nguyên liệu gồm đường nội đồng, kho bảo quản, logistics lạnh, trạm sấy, hệ thống xử lý phụ phẩm sinh học. Ngân sách hỗ trợ một phần vốn hạ tầng, doanh nghiệp và HTX đầu tư phần sản xuất, chế biến.

Cơ chế tín dụng chuỗi giá trị dựa trên hợp đồng và dữ liệu truy xuất sẽ giúp doanh nghiệp và HTX tiếp cận vốn mà không phụ thuộc tài sản thế chấp, kết hợp bảo lãnh tín dụng và hỗ trợ lãi suất 30 - 50%. Đồng thời, triển khai bảo hiểm nông nghiệp và quỹ chia sẻ rủi ro chuỗi để giảm thiểu tổn thất do thiên tai, dịch bệnh, biến động giá, đặc biệt cho các chuỗi áp dụng bao tiêu, tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc sản xuất phát thải thấp.

Xin cảm ơn ông!

Sửa đổi Nghị định 98 hướng đến ba trụ cột: Thể chế linh hoạt; năng lực tổ chức; hạ tầng số và tài chính. Mục tiêu cuối cùng là đưa liên kết nông nghiệp trở thành xương sống của nền nông nghiệp hiện đại, đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường, thích ứng với hội nhập và yêu cầu thị trường quốc tế.

Theo: Báo Công Thương