Chiều 5/11, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thảo “Sơ kết, đánh giá tình hình triển khai Đề án phát triển công nghiệp sinh học ngành nông nghiệp giai đoạn 2021-2025, định hướng giai đoạn 2026-2030”.
Hiệu quả đầu tư và ứng dụng rộng rãi trong nông nghiệp
Báo cáo hiện trạng và triển vọng công nghệ sinh học toàn cầu và Việt Nam đến năm 2030, GS.TS Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp, cho biết, thị trường công nghệ sinh học toàn cầu dự kiến đạt 5,71 nghìn tỷ USD vào năm 2034, tăng mạnh từ 1,77 nghìn tỷ USD năm 2025, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) 13,9%.
Trong đó, Mỹ chiếm 37,42% doanh thu năm 2024, còn khu vực châu Á - Thái Bình Dương dự kiến có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, đạt CAGR 14,8%. Về phân khúc ứng dụng, dược phẩm sinh học chiếm thị phần lớn nhất với 42% vào năm 2024, trong khi tin sinh học dự kiến tăng trưởng vững chắc với CAGR 13,2%.

Toàn cảnh hội nghị. Ảnh: N.H
Xét về công nghệ, kỹ thuật và tái tạo mô chiếm thị phần cao nhất năm 2024 với 19,17%, trong khi phân khúc sắc ký được dự báo tăng trưởng CAGR 15,1%. Bắc Mỹ vẫn dẫn đầu thị trường vào năm 2022, với tốc độ tăng trưởng dự kiến CAGR 10,45%. Về công nghệ sinh học nông nghiệp, các phân khúc nổi bật bao gồm: Công nghệ sinh học cây trồng chiếm 30% thị phần năm 2022, kỹ thuật di truyền chiếm 25%, nuôi cấy mô chiếm 20%, hạt giống lai chiếm 30% và phân bón sinh học chiếm 26% doanh thu năm 2022.
Đáng chú ý, thị trường chỉnh sửa gen dựa trên CRISPR (công nghệ chỉnh sửa gen) toàn cầu được định giá 6,15 tỷ USD vào năm 2024, dự kiến đạt 24,37 tỷ USD vào năm 2034, với CAGR 14,76% từ 2025-2034. Sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi tỷ lệ mắc các rối loạn di truyền gia tăng, tiến bộ công nghệ CRISPR, tập trung vào y học cá nhân hóa, y học tái tạo và gia tăng đầu tư vào nghiên cứu, phát triển CRISPR.
Tại Việt Nam, sau 5 năm triển khai Chương trình công nghiệp sinh học, Việt Nam đã đạt được những kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp sinh học đã được áp dụng vào nhiều lĩnh vực: Trồng trọt (lúa gạo, hoa, rau màu), chăn nuôi (vaccin, giống), thủy sản (tôm, cá), rừng trồng (bạch đàn) và các sản phẩm công nghiệp sinh học khác. Đây là cơ sở để ngành tiếp tục phát triển, đưa khoa học, công nghệ đi vào sản xuất, đồng thời xác định rõ thực trạng Việt Nam so với thế giới, định hướng giải pháp và mục tiêu cụ thể.
Tuy nhiên, để phát triển hiệu quả, các chuyên gia cho rằng, ngành cần tập trung vào những giải pháp tổng thể, thay vì triển khai nhỏ lẻ từng đề tài riêng rẽ. Cần có sự phân công rõ ràng, giao nhiệm vụ cho từng viện, cơ sở nghiên cứu theo từng chuỗi sản phẩm và tính trạng cụ thể.
Hoàn thiện chính sách, hạ tầng và nhân lực cho giai đoạn tiếp theo
Phát biểu kết luận hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến cho hay, ngành cần rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan, từ luật, nghị định, thông tư đến các quyết định chuyên ngành. Điều này bao gồm việc phân cấp chính quyền, cơ chế phối hợp liên ngành và cơ chế quản lý, đánh giá kết quả khoa học, công nghệ. Việc cụ thể hóa các quy định này sẽ giúp tránh tình trạng chồng chéo, đảm bảo đầu tư và triển khai hiệu quả.
Mặt khác, các quy trình khảo nghiệm vẫn còn chậm, đặc biệt đối với cây trồng, vật nuôi và vaccine. Do đó, ngành cần rút ngắn thời gian thí nghiệm, đi tắt đón đầu, tập trung vào các sản phẩm chiến lược, đảm bảo tính thực tiễn và khả năng ứng dụng trực tiếp. Các chương trình cần được thiết kế theo chuỗi sản phẩm, gắn với các mục tiêu nông nghiệp hữu cơ, tuần hoàn, xanh và giảm phát thải, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số trong toàn ngành.
Hiện nay, hạ tầng, trang thiết bị và nhân lực là những yếu tố then chốt. Do đó, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến yêu cầu, cần phân tích đánh giá hiện trạng, từ cơ sở vật chất đến trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân lực. Việc đầu tư cần phân vùng theo miền Bắc, Trung, Nam và tập trung vào các lĩnh vực trọng điểm: Trồng trọt, thủy sản, chăn nuôi. Đồng thời, phối hợp giữa viện nghiên cứu, doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo quốc tế sẽ nâng cao năng lực ứng dụng và đổi mới sáng tạo.
Hợp tác quốc tế là công cụ quan trọng để tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các quốc gia phát triển như Mỹ, Trung Quốc, New Zealand. Đồng thời, truyền thông khoa học cần được quan tâm, tổ chức các hội thảo, mời chuyên gia chia sẻ kiến thức chuyên sâu cho từng lĩnh vực. Điều này giúp cập nhật thông tin, nâng cao nhận thức và thúc đẩy ứng dụng thực tiễn.
"Giai đoạn 2021-2025 đã ghi nhận kết quả bước đầu của công nghiệp sinh học, tạo nền tảng cho giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, cần bổ sung sâu sắc hơn các giải pháp, đánh giá hiệu quả và khả năng ứng dụng của từng sản phẩm, dự án. Trong giai đoạn tiếp theo, các nhà khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học và doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ để xây dựng cơ chế quản lý và vận hành khoa học, minh bạch, cụ thể và thực tiễn", Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, cần tập trung vào các chuỗi sản phẩm chiến lược, ưu tiên các lĩnh vực nông nghiệp xanh, tuần hoàn, hữu cơ. Đầu tư hạ tầng, trang thiết bị và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Thúc đẩy hợp tác quốc tế và truyền thông khoa học, cập nhật thông tin, kết nối doanh nghiệp và viện nghiên cứu. Việc triển khai các giải pháp trên sẽ giúp Việt Nam nâng cao năng lực công nghiệp sinh học, tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, tăng trưởng bền vững và hội nhập quốc tế.
Từ 2012 đến 2023, hơn 17.000 bằng sáng chế liên quan đến công nghệ CRISPR (công nghệ chỉnh sửa gen) đã được cấp trên toàn cầu. Trong đó, Trung Quốc chiếm 46% và Hoa Kỳ gần 40%, hầu hết tập trung vào ứng dụng Cas9. Việt Nam hiện chưa xuất hiện trong danh sách các quốc gia sở hữu bản quyền CRISPR/Cas.
