Động lực củng cố thương mại Việt Nam - Israel
Israel là đối tác thương mại lớn thứ ba, là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư và cũng là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai của Việt Nam tại khu vực Trung Đông. Ngược lại, Việt Nam là một trong những đối thương mại lớn nhất của Israel ở khu vực Đông Nam Á.
Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước có tính chất bổ sung cho nhau. Những mặt hàng Israel cần nhập khẩu cũng là những mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam. Thời gian qua, xuất khẩu của Việt Nam sang Israel trung bình đạt khoảng trên dưới 800 triệu USD mỗi năm, chưa tính Việt Nam nhập khẩu từ thị trường này đạt khoảng trên dưới 2,5 tỷ USD mỗi năm.
Trong 10 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu của Việt Nam sang Israel đạt khoảng 700 triệu USD, tăng 4,1% so cùng kỳ năm ngoái. Nếu như tình hình thị trường từ nay đến cuối năm không có những biến động đột xuất thì xuất khẩu cả năm sang thị trường này có thể đạt khoảng 880 triệu USD, ước tăng 10,75% so với năm 2024.
Hiện nay, Việt Nam có trên 70 mặt hàng các loại xuất khẩu sang Israel, trong đó đáng chú ý là nông thủy sản các loại.

Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Israel Lê Thái Hòa thông tin về tình hình hợp tác giao thương giữa hai nước. Ảnh: TTXVN
Ông Lê Thái Hòa - Tham tán thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Israel cho biết, Israel là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam tại khu vực Trung Đông. Mỗi năm, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Israel đạt trên 100 triệu USD và chiếm khoảng 12 - 13% tổng kim ngạch ở thủy sản của Israel từ tất cả các thị trường trên thế giới.
Ngoài thủy sản, các nhóm hàng nông sản thế mạnh khác của Việt Nam xuất khẩu sang Israel còn nhiều dư địa như: Hạt tiêu, hạt điều, cơm dừa, thực phẩm chế biến, gạo... Nhiều hàng hóa Việt Nam bước đầu đã có chỗ đứng ổn định ở thị trường Israel.
Đáng chú ý, theo Tham tán thương mại Lê Thái Hòa, hai nước Việt Nam - Israel đã ký kết thành công Hiệp định thương mại tự do - VIFTA. Hiệp định sẽ trở thành xung lực mạnh mẽ thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương.
Làm rõ các động lực, Tham tán thương mại Lê Thái Hòa cho rằng, VIFTA là hiệp định thương mại tự do đầu tiên Việt Nam ký kết với một nước ở khu vực Trung Đông. Đồng thời là FTA đầu tiên mà Israel ký với một nước ở khu vực Đông Nam Á và là FTA thứ hai mà Israel ký với một nước ở châu Á sau Hàn Quốc (không tính FTA mà Israel ký với Jordan vào năm 1995) thì VIFTA là một hiệp định thương mại tự do có tính truyền thống kết hợp có những yếu tố hiện đại.
Hiệp định VIFTA đã được hai nước Việt Nam và Israel phê duyệt và có hiệu lực từ ngày 17/11/2024. Đây là một cột mốc quan trọng trong quan hệ hợp tác thương mại song phương nhiều mặt giữa hai nước, nhất là trong lĩnh vực thương mại và đầu tư.
Về tự do hóa hàng hóa, theo VIFTA hai bên cam kết nâng cao tỷ lệ tự do hóa thương mại. Israel cam kết tự do hóa 92,7% số dòng thuế, Việt Nam cam kết tự do hóa thương mại 85,8% số dòng thuế tính đến cuối lộ trình.
Cũng theo nội dung Hiệp định, sẽ có tổng cộng khoảng 11.446 dòng thuế được hưởng ưu đãi thuế quan và mức thuế quan trung bình được điều chỉnh giảm dần: trên 10% vào năm 2024 xuống còn khoảng 9% vào năm 2025, 8,4% vào năm 2026 và 7,5% vào năm 2027.
Những điều khoản trên đã được công bố trên các trang web chính thức của Bộ Công Thương cũng như các bộ, ngành, đơn vị liên quan. Tuy nhiên, tóm tắt lại, theo cam kết, Israel sẽ dỡ bỏ thuế quan đối với tổng cộng 92,7% số dòng thuế, trong đó xóa bỏ ngay 66,3% số dòng thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực và 26,4% số dòng thuế sau một khoảng thời gian nhất định theo các lộ trình từ 3-5 năm, 5-7 năm hoặc 10 năm và Israel cam kết dành hạn ngạch thuế quan với thuế suất là 0% trong hạn ngạch đối với một số mặt hàng nông sản của Việt Nam như: Trứng gà, thịt, khoai tây, cà rốt, súp lơ, nấm, cá ngừ...
Trong thời gian qua, các mặt hàng thời trang hay giày dép gia công thuộc nhóm mã HS từ 61 đến 64 hầu hết được miễn thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực, trong khi các mặt hàng thời trang giày dép khác có lộ trình xóa bỏ thuế quan trong vòng từ 3 đến 5 năm.

Thủy sản Việt Nam có chỗ đứng nhất định tại thị trường Israel. Ảnh: Ngọc Huyền
“Với những lợi thế, ưu đãi thuế quan nêu trên, Hiệp định VIFTA được kỳ vọng sẽ là cú hích quan trọng đưa quan hệ Việt Nam - Israel lên tầm cao mới. Khi được thực thi hiệu quả, Hiệp định VIFTA không chỉ giúp tăng trưởng kim ngạch thương mại song phương mà còn mở rộng không gian hợp tác trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo” - Tham tán thương mại Lê Thái Hòa nhận định.
Doanh nghiệp Israel ưa chuộng hàng chế biến, giá trị tăng cao
Đáng chú ý, từ thị trường sở tại, Tham tán thương mại Lê Thái Hòa cho biết, mặc dù dung lượng thị trường Israel là khiêm tốn, quy mô dân số khoảng 10 triệu người, tuy nhiên đây lại là một thị trường có khả năng thanh toán cao. Hàng năm, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt trên 100 tỷ USD, trong đó, riêng đối với nhóm hàng tiêu dùng và lương thực phẩm chiếm trên 25 tỷ USD/năm.
Các doanh nghiệp Israel kinh doanh năng động, thích ứng nhanh với thị trường, làm ăn khá bài bản, nghiêm túc, giao dịch nhanh, luôn chủ động tìm kiếm đối tác bạn hàng qua nhiều kênh khác nhau, có sức mua ổn định, cơ bản thanh toán sòng phẳng, sẵn sàng đặt cọc hoặc trả tiền trước. Đặc biệt, các doanh nghiệp Israel thích gặp gỡ trực tiếp đối tác, bạn hàng, đến tận nơi xem hàng hóa và thường tiếp cận đối tác theo các nhóm riêng biệt.
Các doanh nghiệp Israel cũng muốn mua hàng trực tiếp của nhà sản xuất, không muốn qua trung gian và là một đất nước có đặc trưng tôn giáo, sắc tộc. Các doanh nghiệp mà Israel gốc Do Thái thường yêu cầu người xuất khẩu phải có chứng minh nhận Koser, trong khi các doanh nghiệp gốc người Arab thì yêu cầu người xuất khẩu phải có chứng nhận Halal đối với một số chủng loại hàng hóa nhất định, chủ yếu là đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng.
Trước đây, khi hàng hóa nhập khẩu vào Israel thường phải tuân thủ theo những tiêu chuẩn đặc thù của Do Thái, khác với cả các nơi còn lại trên thế giới. Tuy nhiên, trong tiến trình cải cách, mở cửa thị trường, Israel đã và đang ngày càng áp dụng những tiêu chuẩn thông dụng của thế giới để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu hàng hóa từ bên ngoài vào trong nước và gia tăng tính cạnh tranh trên thị trường nội địa, góp phần đa dạng hóa và ổn định nguồn cung cấp cũng như đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ở trong nước.
Nhu cầu nhập khẩu vào thị trường là khá lớn. Vòng quay ở thị trường Israel nhanh thể hiện ở giá trị nhập khẩu hàng hóa tăng mạnh hàng năm. Tập quán và thói quen kinh doanh của các doanh nghiệp người Israel là thích mua hàng thành phẩm đã có chế biến có giá trị gia tăng cao, được đóng gói sẵn ở bao bì hoàn chỉnh, nhất là đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm và tiêu dùng, hàng điện tử và hàng gia dụng để có thể mang về đưa vào các kênh phân phối hoặc siêu thị bán lẻ cho người tiêu dùng có thể sử dụng được ngay sau khi mua hàng xuất khẩu sang thị trường.
Những lưu ý cho doanh nghiệp xuất khẩu
Thứ nhất, Hiệp định VIFTA đã có hiệu lực cần tranh thủ cơ hội thị trường, tăng tốc tận dụng ưu đãi từ FTA để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa.
Thứ hai, thấu hiểu thị trường, hiểu tập quán kinh doanh. Doanh nghiệp Israel muốn mua hàng thành phẩm đã chế biến, có giá trị gia tăng cao. Vì vậy, doanh nghiệp Việt Nam cần bán mặt hàng có hàm lượng chế biến giá trị tăng cao.
Thứ ba, đối với tiêu chuẩn về chất lượng hàng hóa. Israel yêu cầu hàng hóa nhập khẩu phải tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn bản địa, nhiều khi mang tính chất đặc thù.
Bên cạnh đó, Israel cũng áp dụng các tiêu chuẩn của EU, của Hoa Kỳ và thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát khá nghiêm ngặt, nhất là đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm.
“Giúp doanh nghiệp hiểu rõ thị trường Israel, tập quán kinh doanh, Thương vụ Việt Nam tại Israel đã xuất bản một số các ấn phẩm như: Sổ tay về quy định nhập khẩu nông sản và thực phẩm Israel; ấn phẩm, sổ tay hướng dẫn về nhập khẩu thương mại Israel; ấn phẩm, sổ tay rà soát chính sách thương mại nhập khẩu mới của Israel; ấn phẩm cập nhật một số quy định mới nhất về các cải cách nhập khẩu của Israel theo nguyên tắc: Những gì tốt nhất cho châu Âu thì cũng tốt cho Israel...” - Tham tán thương mại Lê Thái Hòa thông tin.
Thứ tư, các doanh nghiệp cần chú trọng chào hàng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao với giá cả cạnh tranh, chất lượng phù hợp và nhanh chóng trả lời các giao dịch của khách mua hàng người Israel cũng như tuân thủ các yêu cầu về tiêu chuẩn và quy định nhập khẩu.
Thứ năm, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần tranh thủ mở rộng hợp tác với các tổ chức và doanh nghiệp công nghệ Israel khoa công nghệ và kỹ thuật từ phía bạn.
Cuối cùng, các doanh nghiệp cũng thường xuyên theo dõi những diễn biến về an ninh chính trị tại Israel và khu vực để có đối sách kịp thời, bảo đảm lợi ích và hợp tác kinh doanh của mình với các đối tác của Israel.
Khởi động từ ngày 2/12/2015, quá trình đàm phán VIFTA kéo dài suốt 8 năm với tổng cộng 12 phiên đàm phán chính thức. Trên cơ sở Nghị quyết số 110/NQ-CP ngày 21/7/2023 của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã đại diện Việt Nam ký kết Hiệp định VIFTA.
Hiệp định này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường Israel mà còn mở ra cơ hội để các doanh nghiệp hai nước tăng cường kết nối, trao đổi công nghệ, đầu tư và phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật cao.
